VĂN PHÒNG LUẬT SƯ LÊ NGUYÊN GIÁP THAM GIA
BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG VỤ ÁN LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
Văn phòng Luật sư Lê Nguyên Giáp tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong vụ án lao động khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng tại Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
Nguồn ảnh: Văn phòng Luật sư Lê Nguyên Giáp
Trong suốt thời gian dài, Người lao động đã phải chịu sự bố trí không đúng địa điểm làm việc và thực hiện công việc khác với thỏa thuận – không phù hợp với chuyên môn theo Hợp đồng lao động hai bên đã ký kết dẫn đến ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng.
Nguồn ảnh: Văn phòng Luật sư Lê Nguyên Giáp
Vậy trường hợp nào người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?
Căn cứ theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Lao động 2019 quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động cụ thể như sau:
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động: Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng; Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật nàylàm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.”
Tuy nhiên, tại Điều 40 của Bộ luật Lao động năm 2019 quy định rõ nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật, thì sẽ không được trợ cấp thôi việc; Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo Hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo Hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước; Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật Lao động.
Như vậy, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng có nghĩa vụ phải báo trước cho người sử dụng lao động, trừ một số trường hợp được pháp luật quy định cho phép người lao động không phải báo trước cho người sử dụng lao động.
Với nhiều năm kinh nghiệm trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động, Văn phòng Luật sư Lê Nguyên Giáp nhận định, người lao động cần tham vấn ý kiến của Luật sư để đảm bảo tối đa quyền lợi khi đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc khi người lao động bị người sử dụng lao động tự ý đuổi việc/ chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.